http://www.vanhoanghethuat.org.vn/2003.07/phquocanh.htm
NGHI LỄ CƯỚI TRUYỀN THỐNG
CỦA NGƯỜI CHĂM BÀLAMÔN
(TIẾP THEO SỐ 6-2003)
PHAN QUỐC ANH*
1.5. Các nghi lễ trong ngày cưới (Bơng padih hay Bơng mư nhum)
- Lễ cúng trình tổ tiên (khan prok)
Bên nhà gái, ông nưmư làm một lễ cúng thần linh và tổ tiên. Mâm lễ vật gồm một khay trầu cau, một chiếc cổ bồng, trên đó có một nải chuối để úp, một khay lửa trầm hương, một lọ dầu dừa, một chung rượu, một chiếc ống nhổ, một bộ bình trà, một gạt tàn thuốc lá, trên đó để hai điếu thuốc đã được đốt lên. Tất cả lễ vật được để trên một chiếc chiếu tục Chăm (chiêu pang). Phía bên trái để hai chiếc chiếu, hai chiếc gối. Khay trầu cau (cabar) của người Chăm được đan bằng mây, hình tròn, đường kính khoảng 25cm - 30cm, chiều cao khoảng 15 cm, phía trên có một chiếc đĩa để trầu cau, rượu, trên đó có 5 miếng trầu đã têm (trầu têm dẹt), vôi có nhuộm phẩm màu hồng, thuốc lá sợi để ăn với trầu cau, 5 ngọn nến bằng sáp ong. Trong lòng khay có một chiếc hộp nhôm hình trụ, trong hộp có 5 lá trầu, 5 miếng cau chưa têm, vôi và thuốc lá sợi. Cũng như trong các nghi lễ khác của người Chăm Bàlamôn (trừ nghi lễ tang ma), các mâm lễ và lễ vật bao giờ cũng thể hiện con số 5. Trong khi ở những lễ thức này, người theo Bàni lại thể hiện toàn con số 3. Các vị chức sắc giải thích rằng con số 5 thuộc dương (Bàlamôn thuộc dương). Con số 3 là con số âm (Bàni thuộc âm). Ngoài ra, con số 5 là con số thuộc cõi sống (dương gian) theo quan niệm người Chăm Bàlamôn. Tuy nhiên, cũng có những vị trí thức Chăm cho rằng con số 5 ít nhiều chịu ảnh hưởng lý thuyết ngũ hành. Cũng có thể con số 5 của người Chăm có chịu ảnh hưởng thuyết ngũ phương của các tộc người Đông Nam Á.
Ông nưmư đốt 5 ngọn nến gắn lên các khay lễ vật, vừa khấn thần linh vừa rót rượu mời. Bà nưmư dẫn cô dâu ngồi trước mâm lễ cúng và làm phép chải đầu, xức dầu thơm, yểm bùa lên tóc cô dâu. Sau khi khấn, ông nưmư cầm chiếu gối xông lên khói trầm hương, đọc lời khấn và mang vào phòng the để làm nghi thức trải chiếu, gối. Sở dĩ phải xông chiếu, gối là để tẩy uế và báo cho thần linh biết việc thành hôn của hai người. Ông bà nưmư vào phòng the làm thủ tục trải chiếu, đặt gối cho cô dâu chú rể. Ông vừa khấn vừa vẽ bùa lên đầu, giữa và chân các chiếc chiếu, sau đó trải hai chiếc chiếu chồng lên nhau. Chiếc chiếu trên cùng ông trải ngược (mặt trái lên trên). Những bùa phép và chiếc chiếu trải ngược nhằm ngăn cấm cô dâu chú rể không được “chăn gối” trong 3 ngày cưới. Sau 3 ngày, bùa phép sẽ được gỡ ra, chiếu được trải đúng chiều, khi đó cô dâu chú rể mới chính thức là vợ chồng.
Bà nưmư và cô dâu ngồi lại phòng the để hồi hộp chờ ông nưmư đi đón chú rể về. Cô dâu ngồi trên chiếc chiếu đã trải, bà nưmư ngồi cạnh nhưng không được ngồi lên chiếc chiếu đó. Sau khi làm lễ trải chiếu, đặt gối, ông nưmư lại ra gian nhà ngoài tiếp tục cúng trình tổ tiên. Cúng xong, ông dỡ mâm cúng đưa vào phòng the để chuẩn bị đón chú rể vào làm lễ thức cúng nhập phòng the.
- Lễ đưa, đón rể (Bah rauk mưtơw)
Vào buổi sáng thứ tư, đến đầu giờ buổi chiều, thường là sau 13 giờ (phải là giờ thuộc âm - buổi chiều), nhà trai tổ chức đưa chú rể sang nhà gái. Đoàn đi gồm ông mai và các cặp vợ chồng trong họ (số lượng đoàn đi đã được bàn bạc thống nhất). Ngoài ra, trong gia đình cử một người xách va ly hành trang của chú rể về nhà vợ.
Đến nay, người Chăm vẫn giữ được tục cha mẹ cô dâu chú rể phải đi trốn, lánh mặt không xuất hiện trong các lễ thức đưa đón chú rể và lễ nhập phòng the. Chỉ đến khi những lễ thức đã xong, cha mẹ hai bên mới xuất hiện để mời mọi người ăn tiệc. Đây là một hiện tượng hiếm thấy ở các dân tộc khác. Khi hỏi một số người già Chăm, họ giải thích như sau: Tuy cha mẹ là người có công sinh thành, nuôi dưỡng cô dâu nhưng khi lớn lên là con của họ hàng. Người Chăm có câu: “Toh tet nưh a me thong mư; Tăn prong nưh kâu pa chan” có nghĩa là“Lúc còn nhỏ là con của cha mẹ, lớn lên là con của họ hàng”. Vì vậy, khi cưới, cha mẹ giao hết con cái mình cho ông bà nưmư và bà con họ hàng. Khi rước rể về, cha mẹ hai bên đi trốn, lánh mặt là để chú rể và cô dâu làm quen bà con trong tộc họ hai bên trước, vì họ hàng là lớn nhất và trước hết. Chỉ sau lễ nhập phòng the, cha mẹ mới xuất hiện. Họ hàng đối với người Chăm là rất quan trọng. Sau khi cưới, cô dâu chú rể phải đi thăm hết bà con họ hàng. Nếu ra đường gặp người trong họ mà không biết, không chào hỏi đúng ngôi thứ sẽ bị chê cười. Thậm chí, lỡ có xung đột, cô dâu chú rể cũng phải nhịn, phải “chịu thua” thì mới tỏ lòng tôn kính những người trong tộc họ.
Trước khi đi đón chú rể, ông nưmư nhà gái làm lễ khấn các thần linh, khấn báo tổ tiên và bưng khay trầu rượu đi ra cổng, đến nơi hẹn ở giữa đường để đón chú rể. Khi đoàn nhà trai đến, mọi người trải chiếu, bày các mâm lễ vật gồm trầu cau, nước trà, rượu và ngồi đối diện, chào hỏi, nói chuyện vui vẻ để chờ đến giờ tiếp tục lên đường, sao cho khi đến cổng nhà gái nhằm vào giờ tốt.
Nhà gái trải chiếu từ cổng vào đến nhà làm lễ để đón đoàn nhà trai. Ở cổng nhà gái để một chậu nước lớn, một người đứng múc nước dội vào chân từng người trong họ nhà trai trước khi vào làm lễ. Trong gian khách nhà gái, người ta trải 3 chiếc chiếu thành 3 hàng dọc, ở giữa phía trong là mâm lễ có khay trầu cau, rượu, nến sáp, 2 nải chuối. Hai bên có để hai chiếc gối để cho hai ông nưmư tựa lưng. Ông nưmư nhà trai dẫn chú rể vào, ngồi ở phía nam, ông nưmư nhà gái ngồi ở hướng bắc. Sau khi đã ngồi xuống, hai ông nưmư làm thủ tục khấn vái trước mâm lễ vật. Sau đó, ông nưmư nhà trai dắt tay chú rể đi thẳng vào phòng the.
- Lễ nhập phòng the (Chao tagin on nưmư - trao tay ông nưmư)
The phòng là một gian nhà được trang trí phía trong của nhà tục trong khuôn viên nhà gái (sang yơ). Trong phòng the, người ta trải hai chiếc chiếu chồng lên nhau đã được yểm bùa chú. Chính giữa phòng người ta bày một khay trầu hình trụ, cái ống nhổ, một chén nước bằng đồng. Một ngọn nến sáp được đốt lên, đính vào khay trầu.
Bà nưmư sửa soạn cho nàng dâu, ông nưmư xức dầu thơm cho cô dâu và xung quanh phòng, vừa xức dầu vừa đọc thần chú. Khi bên đàng trai đến, cô dâu đã được trang điểm và hồi hộp đợi giây phút đón chàng rể.
Trong lúc mọi người tập trung ở phòng khách, ông nưmư nhà trai dùng tay phải (dương) cầm tay chú rể đi đến thẳng the phòng cô dâu để trao cho ông nưmư nhà gái nhưng không được bước chân vào phòng the. Ông nưmư nhà gái đón nhận tay chàng rể bằng tay trái (âm) từ tay ông nưmư đàng trai và dắt vào phòng the. Sau đó ông nưmư dẫn chú rể ngồi đối diện với cô dâu. Ông nưmư nhà trai ngồi phía đông, ông nưmư nhà gái ngồi đối diện. Tiếp theo là nghi thức trải chiếu. Hai ông nưmư đứng dậy đổi chỗ cho nhau và cùng cầm đầu chiếc chiếu trên cùng đập lên đập xuống ba lần, miệng đọc thần chú trải chiếu, khấn vái thần linh và trải chiếu sao cho thật phẳng. Theo các cụ già Chăm, nếu chiếu trải một lần mà không phẳng, không ngay ngắn thì không tốt. Chiếu tân hôn được trải theo chiều bắc - nam, đầu quay hướng bắc. Sau khi làm thủ tục trải chiếu, hai ông nưmư kê hai chiếc gối đầu giường phía bắc, vừa kê vừa đọc bùa chú kê gối. Những lời khấn và bùa chú của ông nưmư nhằm mục đích trấn yểm, trừ tà ma và loại trừ những bùa ngải, ma thuật làm hại có thể do những kẻ xấu ghen ghét đã yểm trước đó, đồng thời yểm bùa để cấm cô dâu chú rể không được “ăn nằm” với nhau trong 3 ngày cưới.
Tiếp theo là nghi thức cúng mâm tơ hồng. Mâm lễ vật đã được chuẩn bị sẵn. Ông nưmư thắp 2 ngọn nến, rót rượu khấn vái mời các vị thần trời, thần mẹ xứ sở, thần tổ tiên, thần làng, thần thổ địa về chứng giám cho lễ thành hôn. Bài khấn có nội dung như sau:
“Xin mời tất cả các vị thần linh yang Ppo, yang Amư, yang Ppo Inư Nư gar, Ppo Păn…ngự trị chốn thần linh, ngày lành tháng tốt về đây, với bát nước xúc miệng chà răng và hưởng thảo các lễ vật và cầu xin các ngài đứng xe duyên kết tóc cho đôi trẻ là… (gọi họ tên cô dâu chú rể) thành đôi vợ chồng trăm năm hạnh phúc, làm ăn phát tài, giàu sang phú quí, con đàn cháu đống, gặp nhiều may mắn, tận hưởng hạnh phúc…”.
Ông nưmư bỏ một ít trầm vào chén than và đọc thần chú xông trầm. Cô dâu chú rể đưa hai bàn tay xông lên khói trầm hương. Trong khi đó, ông nưmư đọc lời cầu nguyện sức khoẻ, hạnh phúc, mau mắn có con, làm ăn thịnh vượng cho đôi vợ chồng trẻ.
Cô dâu chọn lấy một lá trầu to nhất, đẹp nhất xé làm đôi, têm với cau, vôi và đưa cho chú rể. Chú rể chọn lấy một quả cau bổ làm đôi đưa cho cô dâu. Ông nưmư giải thích đây là biểu tượng phồn thực trong nghi lễ đám cưới. Lá trầu cô dâu đưa cho chú rể là biểu tượng âm, quả cau chú rể đưa cho cô dâu là biểu tượng dương. Ông nưmư đọc lời cầu khấn, cô dâu chú rể ăn trầu, cùng thưởng thức vị cay nồng của hạnh phúc lứa đôi. Trước khi ra khỏi phòng, ông nưmư bỏ xuống dưới mỗi chiếc gối một miếng trầu têm để yểm bùa.
Tiếp đến là thủ tục chú rể trao nhẫn mư ta(4) cho cô dâu trước sự chứng kiến của ông bà nưmư. Sau khi ông nưmư làm thủ tục nhập phòng và thủ tục ăn trầu, chú rể cởi áo ngoài đưa cho cô dâu, cô dâu nhận áo khoác ngoài của chú rể vắt lên đầu chiếu với ý tứ là từ đây, chú rể đã trao thân gửi phận cho cô dâu, chính thức trở thành thành viên của gia đình nhà gái và cùng cô dâu đi ra ngoài trình diện họ hàng hai bên. Thủ tục nhập phòng the đã xong. Hai ông nưmư ra phòng cưới ngồi ở hai bên chiếu, ở giữa vẫn là mâm lễ vật. Chú rể bưng khay trầu cau đi ra phòng cưới dâng lên cho hai ông nưmư.
Sau đó, ông nưmư dắt tay cô dâu, chú rể ra phòng khách chào và trình diện hai họ, giới thiệu cho cô dâu, chú rể những người thân tộc trong họ hai bên. Ông nưmư căn dặn cô dâu chú rể về bổn phận của mình. Lúc này, cha mẹ cô dâu mới xuất hiện, cùng với cô dâu chú rể đi chúc rượu. Họ đi đến từng mâm, rót rượu và mời khách dự cưới. Lúc này, khách mời mới bắt đầu ăn cơm, uống rượu.
Cô dâu chú rể trở lại phòng the. Ở đây người ta đã dọn sẵn mâm cơm cho cô dâu chú rể. Hai người ngồi đối diện nhau, vừa ăn vừa tâm sự, nói chuyện. Sau đó, từng cặp vợ chồng và những người thân vào phòng the để trao tặng phẩm, quà cưới cho đôi tân hôn. Cô dâu, chú rể rót rượu mời từng người và nhận tặng phẩm. Trong ngày cưới, bên họ nhà trai không trao quà, tặng phẩm cho cô dâu chú rể mà sẽ trao vào ngày lễ “trả khăn áo” (lễ lại mặt).
Sau khi tiễn khách ra về. Cô dâu chú rể quay lại phòng the. Lúc này trong phòng chỉ có hai người ăn uống, trò chuyện với nhau thì thầm. Các mâm lễ vật, chiếu trải, gối kê đã được yểm bùa vẫn nguyên vị trí cũ. Hai người phải ở nguyên vị trí của mình. Chỗ ai nấy nằm, gối ai nấy kê, ở giữa là chiếc cổ bồng kê mâm lễ vật ngăn cách hai người. Cô dâu chú rể đã được ông nưmư căn dặn kỹ lưỡng là được làm gì? Không được làm gì? 3 đêm dài đẵng đẵng như ba thế kỷ, hai người được ở bên nhau nhưng phải “thụ thụ bất thân”, chỉ được trò chuyện, ngắm nhìn nhau trong khao khát cháy bỏng… Có thể, trong thời gian thiêng, không gian thiêng ấy, họ cảm thấy yêu nhau mãnh liệt và cần nhau đến mức nào.
Việc kiêng ba ngày đêm đầu tiên không ăn nằm với nhau là một phong tục đã có từ lâu đời của người Chăm và họ coi là một nét đẹp trong phong tục tập quán. Các cụ già Chăm giải thích rằng, sở dĩ có 3 đêm cấm động phòng đó là vì, ngày xưa, quyết định hôn nhân là do cha mẹ hai bên sắp đặt, nhiều đôi trai gái chưa quen biết nhau, còn lạ lẫm, mắc cỡ, thậm chí sợ sệt khi lần đầu tiếp xúc với “chuyện ấy”. 3 đêm vừa để hai người từ lạ lẫm làm quen nhau, tìm hiểu nhau. Ở một khía cạnh khác, các cụ giải thích rằng, 3 ngày cưới là 3 ngày rất bận rộn và mệt nhọc của cô dâu chú rể vì phải trải qua nhiều lễ thức. Sau 3 đêm, khi nghi lễ cưới đã xong xuôi, khách và họ hàng gần xa đã về hết, cô dâu chú rể mới thảnh thơi tận hưởng đêm tân hôn.
Từ tối thứ tư đến thứ bảy, ba đêm dài đến mấy rồi cũng phải qua đi. Đến tối thứ bảy, ông nưmư và bà mối mới đến làm lễ động phòng cho cô dâu chú rể. Mâm lễ gồm 4 miếng trầu têm, 4 ly rượu. Sau khi khấn vái, ông nưmư gỡ bùa phép đã yểm khắp trên đầu tóc cô dâu chú rể, trên gối, trên vách, rồi ông trải lại chiếu trên cùng cho đúng chiều và mọi người uống một ly rượu mừng hạnh phúc cho cô dâu chú rể. Ông nưmư ghé tai chú rể, bà nưmư ghé tai cô dâu dặn dò kỹ lưỡng về những chuyện thầm kín đêm động phòng. Cô dâu chú rể vừa nín thở nghe căn dặn, vừa hồi hộp chờ đợi giây phút thiêng liêng, hạnh phúc ân ái đầu tiên. Bà nưmư cũng không quên gắn lại chiếc kim trâm cài lên búi tóc cô dâu và dặn cô dâu biết cách xử lý khi chú rể bị “sự cố”. Dặn dò xong, ông bà nưmư đi ra, trả lại thế giới thiêng cho đôi uyên ương.
- Lễ trả khăn áo (Talơh khăn ao) hay còn gọi là lễ lại mặt, lễ xã y hay lễ trình diện tông môn.
Trong 3 ngày cưới, chú rể không được quay lại nhà cha mẹ đẻ. Nếu nhớ nhà chạy về cũng bị khoá cổng không cho vào và bị đuổi về lại nhà gái. Sau 3 ngày, bên nhà gái sửa soạn lễ vật gồm bánh trái, trầu cau, bánh sakaya, bánh tét, chuối, rượu, bánh ngọt xếp vào một cái chiết trầu cau để đi làm lễ trả khăn áo. Ngoài ra còn có một chiết khăn áo để khăn áo cưới của chú rể (chiếc khăn và chiếc áo truyền thống trong đám cưới, chú rể cởi ra trao cho cô dâu trong phòng the ba ngày trước) nên gọi là lễ “trả khăn áo”. Xét về ý nghĩa, có thể coi lễ này như “lễ lại mặt” của người Việt. Đoàn đi gồm cha mẹ, bà con thân tộc gần gũi cùng đôi vợ chồng mới cưới. Nhà trai ra đón đoàn nhà gái rất trịnh trọng và nhà gái cũng rất trân trọng với nhà trai vì, sự ra đi của người con trai Chăm là một mất mát lớn cho gia đình, mất đi một lao động trụ cột. Nhà trai tổ chức một bữa cơm thân mật tiếp đón nhà gái và nhân dịp này, cha mẹ, cô dì chú bác, anh chị trao tặng phẩm như vải lụa, đồ trang sức bằng vàng, bạc và một số đồ dùng thiết yếu cho chú rể. Nhiều gia đình khá giả còn cho chàng trai trâu hoặc bò mang tính chất của hồi môn. Từ đây, chàng trai thật sự chia tay với cha mẹ đẻ, với bà con thân tộc của mình để mãi mãi đi làm rể bên nhà vợ. Chỉ đến khi chết, sau khi hoả táng, 9 miếng xương trán của chàng mới được đem về nhập “kút” bên dòng họ mẹ.
Theo luật tục Chăm, lễ cưới đến đây đã hoàn tất. Hai vợ chồng coi như đã được hợp thức hoá trong xã hội Chăm và có quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ sống với nhau suốt đời. Sau giải phóng, chấp hành luật hôn nhân và gia đình, các đôi vợ chồng phải đến chính quyền địa phương đăng ký kết hôn. Nhưng việc chấp hành điều luật này chưa nhiều. Nếu có ly dị thì chủ yếu là do thoả thuận giữa hai bên và theo luật tục Chăm, người con trai phải ra đi với hai bàn tay trắng.
Trước đây cũng có trường hợp cô dâu chú rể về lại nhà trai sống cho đến khi có con, hai vợ chồng mới về lại nhà vợ, giống như tục “gửi rể” của người Việt, người Chăm gọi là tục “ở dâu”.
Trường hợp vì không đủ điều kiện quy định để làm lễ cưới theo đúng phong tục, người Chăm có tục “cưới lén”.
2. Tục cưới “lén” (Khing klaik mưnưk)
Ở vùng đồng bào Chăm Bàlamôn Ninh Thuận hiện nay vẫn có tục cưới “lén”. Cưới “lén” là những đám cưới tuy cũng phải làm đủ thủ tục cúng thần linh nhưng không tổ chức quy mô, không mời khách ngoài gia đình, tộc họ. Cưới “lén” phải tổ chức vì những lý do “bất khả kháng”, buộc phải làm đám cưới, dành cho những trường hợp: “Chiết a tâu” của gia đình trong năm đã bị hạ xuống bởi những lý do như: Một trong hai bên gia đình có tang; một trong hai gia đình có làm lễ múa lớn (Rija pruang); một trong hai dòng tộc có làm lễ nhập kút; cô dâu đã có thai, hoặc đã có dư luận về sự đi lại, ăn nằm của đôi trai gái. Ngoài ra, còn có những trường hợp vì gia đình quá nghèo, không có đủ điều kiện làm lễ cưới, đôi trai gái chỉ phải thực hiện những nghi thức cơ bản theo phong tục, không tổ chức ăn uống linh đình.
3. Nhận xét bước đầu qua khảo sát nghi lễ cưới của người Chăm Bàlamôn
Trong các nghi lễ đời người của người Chăm Bàlamôn, nghi lễ cưới chiếm một vị trí quan trọng. Những quy định, phong tục về lễ cưới truyền thống của người Chăm còn được lưu giữ trong những thư tịch cổ ở các gia đình, dòng họ, đặc biệt là ở các ông thầy nưmư chuyên đi làm lễ cưới. Có thể thấy ở nghi lễ cưới truyền thống Chăm chứa đựng nhiều giá trị văn hoá. Về mặt khoa học, các lễ thức cưới là sự hỗn dung của các lớp văn hoá: lớp văn hoá bản địa với những yếu tố của văn hoá nông nghiệp lúa nước, yếu tố mẫu hệ, lớp văn hoá tôn giáo với lễ thức 3 đêm cấm động phòng (tàn dư của Bàlamôn giáo). Nghi lễ cưới xin của người Chăm Bàlamôn chứa đựng nhiều giá trị xã hội. Có lẽ, ít có dân tộc nào có tục lệ cha mẹ đẻ phải tránh mặt trong lễ cưới với lý do là con mình trước hết là con của bà con họ hàng, phải giới thiệu cô dâu chú rể với bà con họ hàng trước và cô dâu chú rể phải nhanh chóng nhớ tên, tuổi, bậc quan hệ họ hàng, nhất là phía bên nhà gái. Chủ lễ cưới được gọi là cha mẹ đỡ đầu (nưmư) và mọi công việc trong lễ cưới do ông bà nưmư đảm trách, từ việc cúng bái, đưa đón rể, trang điểm cho cô dâu chú rể, chuẩn bị the phòng và là người đỡ đầu cho đôi bạn trẻ đang bỡ ngỡ bước vào cuộc sống gia đình. Nghi lễ cưới cũng làm cho sự gắn kết dòng họ trong cộng đồng người Chăm Bàlamôn thêm chặt chẽ. Đây là một giá trị cần bảo tồn và phát huy.
Chế độ ngoại hôn dòng họ, hôn nhân đồng dân tộc, đồng tôn giáo đã cố kết cộng đồng người Chăm lại với nhau thành một khối chặt chẽ cả về huyết thống lẫn văn hoá.
Giá trị đạo đức, nhân văn thể hiện ở sự thuỷ chung, tình nghĩa vợ chồng của người Chăm Bàlamôn từ lúc còn sống cho đến sau khi chết đã được nâng lên thành tín ngưỡng, chứa đựng màu sắc tâm linh sâu sắc. Xưa kia, nếu chồng chết, vợ phải lên giàn hoả thiêu cùng chết theo chồng. Giáo lý Bàlamôn xưa mang tính man dã hơn là biểu hiện của lòng chung thuỷ. Vì vậy, đã từ rất lâu, nghi thức này không còn tồn tại trong người Chăm. Cho đến hôm nay, người con trai khi kết hôn theo vợ về cư trú bên nhà vợ, đến khi chết, bên dòng tộc nhà vợ lo làm lễ hoả táng, lấy 9 mảnh xương trán đựng vào hộp (klong) chờ ngày trở về quê mẹ làm lễ nhập kút (lễ chôn 9 mảnh xương xuống dưới những tảng đá kut để thờ phụng). Nếu người vợ còn sống thì trong ngày lễ nhập kút bên nhà chồng, người vợ sẽ làm một chiếc kiệu hoa để kiệu xương chồng về nhà mẹ chồng. Nếu người vợ cũng đã chết thì người ta đặt cả hai hộp xương vợ và chồng lên kiệu để cho vợ tiễn chồng “xương tiễn đưa xương” và sau khi nhập kút cho chồng xong, người ta lại đưa xương người vợ về lại quê vợ để nhập kút vào dòng họ mẹ “xương vĩnh biệt xương”. Nếu người vợ còn sống, theo luật tục hôn nhân và gia đình Chăm, phải 15 năm sau khi đã tiễn biệt chồng, mới được tái giá.
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị văn hoá, nghi lễ cưới xin của người Chăm Bàlamôn cũng còn những yếu tố lạc hậu. Những đặc điểm của chế độ mẫu hệ, những quy tắc về hôn nhân đồng tôn giáo, đồng dân tộc, bên cạnh những mặt tích cực là cơ bản, là một trong những rường cột để bảo lưu sắc thái văn hoá Chăm, cũng có những mặt hạn chế của nó. Như đã nêu trên, những đặc điểm của chế độ mẫu hệ chi phối toàn bộ xã hội Chăm, thậm chí chi phối cả những giáo lý tôn giáo của cả Bàlamôn lẫn Bàni. Người Chăm có câu: Kamei thauk tapung đung bai, Li kei ngap kajang lang chiew, có nghĩa là: Đàn bà cơm nước nồi xoong, đàn ông làm rạp trải chiếu. Trong gia đình mẫu hệ, người đàn ông luôn cảm thấy mình bị phụ thuộc theo quan niệm urang parat (người ngoài). Ngược lại, người phụ nữ Chăm, tuy đóng vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội Chăm, nhưng suốt cuộc đời chỉ quanh quẩn trong khuôn viên nhà mình, không được học hành, ít được tham gia công tác xã hội. Người Chăm có câu: “Likei dơng di mưthuh, kamei dơng di mưnưk” có nghĩa là: Phận của đàn ông là chiến đấu, phận của đàn bà là sinh nở. Như vậy, chúng ta thấy, dù trong chế độ mẫu hệ, người phụ nữ Chăm không có quyền tự do kết hôn với người khác tôn giáo, khác dân tộc, cũng không được khuyến khích học hành nâng cao trình độ và tham gia công tác xã hội. Hơn nữa, các gia đình Chăm đa số rất đông con, trung bình cũng phải 6 đến 7 con, có gia đình trên 10 con, là một gánh nặng cho phụ nữ Chăm. Mặc dù chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình ở vùng đồng bào Chăm đã được triển khai nhiều năm nay nhưng vẫn tiến triển chậm. Đây cũng là một vấn đề cần nghiên cứu giải quyết trong giai đoạn Đảng và Nhà nước ta đang có thực hiện chính sách “vì sự tiến bộ của phụ nữ”.
Những đặc điểm của chế độ mẫu hệ, những quy tắc hôn nhân trên làm cho người Chăm tự khép kín mình trong khuôn viên các palei Chăm, một mặt như chiếc vành đai (như luỹ tre làng của cư dân Việt ở Bắc Bộ) có chức năng bảo tồn văn hoá, một mặt là sự bảo thủ, trì trệ, kìm hãm sự giao lưu phát triển các mặt kinh tế xã hội Chăm. Thanh niên Chăm từ xa xưa đã luôn đấu tranh chống lại những quy định về hôn nhân đồng dân tộc, hôn nhân đồng tôn giáo và đã có nhiều bi kịch xảy ra, trở thành những áng văn hoá dân gian Chăm có giá trị như trường ca Cam - Bini; Bini - Cam và nhiều câu ca dao, bài hát dân ca bi ai, sầu thảm khác nói về những chuyện tình của những người khác tôn giáo.
Trong các nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn, với quan niệm cõi sống là cõi tạm, cõi chết mới là cõi vĩnh hằng (sống gửi, thác về), nên người Chăm không coi trọng lắm những nghi lễ khi con người còn sống. Vì vậy, nghi lễ cưới cũng đang trong thời kỳ biến đổi nhanh chóng. Những năm gần đây, những phong tục đẹp như trang phục truyền thống của cô dâu chú rể đang bị lãng quên, thay vào đó là trang phục hiện đại như com lê, cà vạt, áo cưới thời trang, âm nhạc, khiêu vũ hiện đại. Phong tục cha mẹ phải đi trốn trong các lễ thức cưới cũng đang bị mai một dần. Đặc biệt, lễ thức 3 ngày đêm lễ cưới cấm động phòng ngày càng ít có đám cưới thực hiện, thậm chí hiện tượng “ăn cơm trước kẻng” ngày càng phổ biến.
Với những nhận xét bước đầu trên đây, nghi lễ cưới của người Chăm Bàlamôn cần có sự nghiên cứu chuyên biệt nhằm bảo lưu, gìn giữ và phát huy. Bởi vì, cùng với nghi lễ tang ma, nghi lễ cưới là nơi thể hiện cơ bản nhất sắc thái văn hoá dân tộc Chăm, là môi trường tốt để bảo lưu, đồng thời cũng là môi trường dễ bị mai một vốn văn hoá truyền thống Chăm./.
P.Q.A
_______________
1. “Chiết a tâu” là một chiếc giỏ hình vuông được đan bằng tre, dùng để đựng y trang trong việc thờ cúng của hay tộc họ. Đây là một vật tổ thiêng để thờ cúng tổ tiên của người Chăm, muốn hạ “chiết a tâu” phải làm lễ cúng và có những điều kiện nhất định.
2. Trong bài viết này chúng tôi sử dụng phiên âm tiếng Chăm theo cuốn Từ điển Chăm - Việt do Bùi Khánh Thế chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội, 1996.
3. Tư liệu lời chúc và lời khấn trong lễ cưới do ông Quảng Văn Đại, 65 tuổi ở thôn Chắt Thường, xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận dịch từ văn bản chữ Chăm cổ.
4. Đây là chiếc nhẫn người Chăm cho rằng có nguồn gốc Ấn Độ, nhẫn có chạm hình một con mắt, người Chăm gọi là Kara mưta.
--------------------------------------------------------------------------------
* NCS tại Viện Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật.
Bản quyền Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật 1973 - 2004
Các website khác khi trích dẫn tài liệu ở đây phải ghi rõ xuất xứ là www.vanhoanghethuat.org.vn
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét